Từ năm 1945, ngay khi mới giành được độc lập, để tìm người tài đức ra gánh vác việc nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Nhân tài và kiến quốc” đăng trên Báo Cứu quốc, trong đó khẳng định: “Kiến quốc có chắc thành công thì kháng chiến mới mau thắng lợi. Kiến thiết thì phải có nhân tài”. Với quan điểm: “Trí thức là nhân tài của đất nước”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nội hàm của trí thức một cách rõ ràng: “Trí thức là gì? Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: Một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác”[1].
Kế thừa quan điểm đó, trong các cương lĩnh cũng như văn kiện đại hội, Đảng ta đã có những nhận thức mới, sáng tạo về đội ngũ trí thức. Từ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ VIII, Đảng đã có những quan điểm đổi mới về đội ngũ trí thức và xác định các chính sách cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ trí thức. Trong những chính sách đó, Đảng đặt con người vào vị trí trung tâm, xác định chăm lo hạnh phúc cho con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất, đồng thời xác định để đào tạo được những con người có đầy đủ phẩm chất, trí tuệ, thể chất, tinh thần, tư tưởng thì nhiệm vụ giáo dục, đào tạo là vô cùng quan trọng. Do đó, Đảng coi giáo dục, đào tạo là “quốc sách hàng đầu”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và lần thứ X, Đảng ta đưa ra quan điểm công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa” đã đưa ra quan điểm một cách có hệ thống về đội ngũ trí thức. Lần đầu tiên Đảng ta đưa ra quan niệm đầy đủ và khách quan về trí thức: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”[2]. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế tri thức, vấn đề xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm nguồn lực con người lao động có chất lượng cao mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong toàn bộ chiến lược xây dựng và phát triển đất nước. Nhận thức đó được thể hiện: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”[3].
Đặc biệt, trong việc hoạch định đường lối, chính sách, Văn kiện Đại hội XI đã khẳng định: “Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước”[4].
Trên cơ sở kế thừa và phát triển, Hội nghị Trung ương tám khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới. Nghị quyết đã đánh giá một cách khách quan, toàn diện kết quả sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X, đồng thời đã bổ sung, hoàn thiện hơn quan điểm về đội ngũ trí thức: “Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động trí óc, có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu về một lĩnh vực, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; giàu lòng yêu nước, có đạo đức và lý tưởng cách mạng, gắn bó với Đảng, Nhà nước và dân tộc; là lực lượng có vai trò quan trọng trong liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; có trách nhiệm tiên phong, tạo ra sản phẩm tinh thần, vật chất chất lượng cao cho xã hội, là nguồn lực đặc biệt trong phát triển kinh tế tri thức, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là nhân tố quan trọng trong nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Quan điểm này được thể hiện ở 5 nội dung cơ bản:
Thứ nhất, đội ngũ trí thức là lực lượng lao động trí óc, có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu về một lĩnh vực, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo. Trí thức được đào tạo bài bản, trang bị kiến thức chuyên sâu không chỉ ở trong nước mà còn ở những nền giáo dục lớn trên thế giới nên họ được xem là nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Trong mọi thời đại và ở bất cứ quốc gia nào, đội ngũ trí thức luôn luôn là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xã hội, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia, dân tộc. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.
Thứ hai, đội ngũ trí thức là những người giàu lòng yêu nước, có đạo đức và lý tưởng cách mạng, gắn bó với Đảng, Nhà nước và dân tộc. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài của dân tộc, trí thức Việt Nam luôn luôn nêu cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nói đến trí thức là nói đến bộ mặt của cả một xã hội, vì vậy, trí thức là người phải có những hoài bão lớn, ý chí lớn và có lối sống cao quý, cao thượng - tức là sống vì dân, vì nước, đem tài năng, kiến thức, hiểu biết của mình để phục vụ cho đất nước, cho nhân dân.
Thứ ba, đội ngũ trí thức là lực lượng có vai trò quan trọng trong liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, liên minh giai cấp công nhân, nông dông dân và tầng lớp trí thức ngày càng được tăng cường và củng cố, làm nòng cốt cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Mặc dù, trong liên minh, giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển của xã hội nhưng đội ngũ trí thức ngày càng có vai trò quyết định trong việc ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Thứ tư, đội ngũ trí thức có trách nhiệm tiên phong, tạo ra sản phẩm tinh thần, vật chất chất lượng cao cho xã hội, là nguồn lực đặc biệt trong phát triển kinh tế tri thức, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ngày nay, đội ngũ trí thức Việt Nam có mặt trên tất cả các lĩnh vực, các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Xét về cơ cấu ngành, bất cứ ngành sản xuất nào, từ nông nghiệp, công nghiệp đến dịch vụ, cũng đều có sự tham gia của đội ngũ trí thức. Thực lực của đội ngũ trí thức quyết định năng suất và hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất trong xã hội. Do đó, đội ngũ trí thức được xem là lực lượng tiên phong, nòng cốt của quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện mới. Đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu trong nghiên cứu, ứng dụng, phát triển các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, chuyển giao công nghệ, đổi mới dây chuyền sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất lao động của các ngành kinh tế, giúp đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, quyết định sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ năm, đội ngũ trí thức là nhân tố quan trọng trong nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ năm 2008, Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa X đã xác định đội ngũ trí thức Việt Nam “được hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người Việt Nam ở nước ngoài”, trở thành đội ngũ quan trọng trong quá trình truyền tải, lan tỏa, vận dụng và phát triển, sáng tạo tri thức mà mình đang có cho xã hội, phục vụ sự tiến bộ, phát triển của đất nước.
Trong bối cảnh đó, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam - tổ chức tập hợp đội ngũ trí thức, đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW, trong đó có 04 nhóm nhiệm vụ chính và 17 giải pháp trọng tâm. Để chương trình được thực hiện hiệu quả, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cần tổ chức thực hiện tốt việc cụ thể hoá quan điểm, chủ trương mới của Đảng về đội ngũ trí thức, đặc biệt chú trọng mối quan hệ với liên hiệp hội các địa phương, thông qua các hoạt động phối hợp về tư vấn phản biện, truyền thông phổ biến kiến thức và nghiên cứu khoa học. Có như vậy, Nghị quyết số 45-NQ/TW mới thực sự phát huy hiệu quả.
Lê Hồng
- Hồ Chí Minh, 2011, Toàn tập, tập 5, xuất bản lần thứ 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 275
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 67, tr. 792 - 793
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 90 - 91
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 241 - 242