Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hải Dương
Sấm rền Cửa Việt
Chủ nhật - 20/04/2025 17:2430
Nhân kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi có đến thăm gia đình Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Xuân Sênh, tại Trại Xanh, xã Duy Tân, huyện Kinh Môn, quê hương nhiều đời của gia đình anh.
Gọi anh ở đây là cách xưng hô thân mật của những người đồng tuế. còn về xã hội anh đã vào hàng cụ, vì đã ở tuổi 85. Khi soạn cuốn Nhân vật chí Hải Dương, tôi đã được nghiên cứu tiểu sử của anh qua tài liệu của quân đội. Hiểu biết về anh còn rất hạn chế, nhưng đến khi về quê anh trong dịp đặt nóc chùa Xanh, tức Thiên Quang tự, tôi mới có dịp gặp anh tại nhà riêng, mới có điều kiện hiểu biết thêm về đời tư của anh. Năm ấy nhà anh còn giản dị, trước cửa có hòn non bộ thật hấp dẫn. Thấy tôi chăm chú xem, anh có nhã ý làm giúp tôi một cái tương tự cho vui. Tôi nói tôi rất thích tiểu cảnh này nhưng ở phố không có điều kiện, còn ở quê lại ít về.
Anh hùng Lê Xuân Sênh vùng vợ và các cháu.
Gần đây, tôi có gặp anh ở vài hội nghị nhưng “gặp nhau lần nào cũng vội” nên không trao đổi được về những chiến công của anh thời chống Mỹ. Chúng ta biết rằng, để có những chiến công được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng là điều cực kỳ gian nan, công lao to lớn đã đành, đặc biệt còn phải gương mẫu, hy sinh nhiều về đời tư, có khi được phong tặng danh hiệu cao quý thì đã hy sinh hoặc đã mất từ lâu rồi. Được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân từ năm 1972, tức đã 53 năm, nay vợ chồng đồng tuế, song toàn khỏe mạnh, sống tại quê hương, trong một căn nhà khang trang như những ngôi nhà thường thấy ở nông thôn hiện nay và tiện nghi, con cháu nội ngoại trưởng thành, thế là hạnh phúc. Ngày đầu tháng 4 năm 2025, tôi đến thăm anh chị, còn gần một tháng nữa là đến ngày kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, không chỉ nhân dân cả nước háo hức mà chính phủ và quân đội nhiều nước cũng muốn được tham dự lễ kỷ niệm đặc biệt này. Đến nay, sơ bộ có 9 nước xin tham gia duyệt binh ngày chiến thắng, trong đó có cả nước từng mang quân tham chiến ở miền Nam. Nhiều nước từng là địch thủ không đội trời chung một thời của Việt Nam, nay đại biểu của họ cũng muốn được cùng ngồi trên lễ đài xem ta duyệt binh mừng chiến thắng tựa như mừng chiến công của chính họ. Có lẽ trên thế giới này, sự kiện đó chỉ có ở nước ta do chính sách ngoại giao đặc biệt của Việt Nam đã được hình thành trong lịch sử. Đọc lại Phú núi Chí Linh của Nguyễn Trãi, viết sau chiến thắng giặc Minh (1428), cách nay gần 600 năm, có câu: Nghĩ vì kế lâu dài của nhà nước, Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh. Sửa hòa hiếu cho hai nước, Tắt muôn đời chiến tranh. Như vậy ông cha ta, đánh bọn ngoại xâm cốt sao đuổi chúng khỏi đất nước, tha bọn hàng binh, giữ được hòa bình, diệt mầm mống của chiến tranh, hòa hiếu với các nước, không cố chấp về việc bồi thường. Hòa hiếu nhưng không quên cảnh giác. Như vậy, tư tưởng chiến tranh chống ngoại xâm để vãn hồi hòa bình lâu dài của Nguyễn Trãi, của Việt Nam đã đi trước mục tiêu của Hội đồng hòa bình thế giới đến năm trăm năm. Để có hòa bình, dân tộc ta hy sinh không nhỏ. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, thời Trần (TK XIII) có trên 4,9 triệu đinh, đến thời Hồ (TK XIV), trước khi giặc Minh xâm lược nước ta số đinh hẳn hơn thế, khoảng trên 5 triệu. Đến thời Lê, sau khi giải phóng đất nước (1428), số đinh còn trên 700.000 suất (tr. 214). Như vậy trên 4 triệu đinh đi đâu? Nếu không hy sinh thì cũng tha hương! Anh hùng Lê Xuân Sênh, sinh ngày 20-5-1941, trong một gia đình cách mạngcó tới 10 anh chị em, mẹ lại thường đau yếu nên khá vất vả, thân phụ từng là xã đội trưởng, giúp đỡ nhiều thanh niên trưởng thành, gia nhập Đảng Cộng sản. Thời niên thiếu, Lê Xuân Sênh là một thiếu niên hoạt bát, tham gia mọi việc của một gia đình lớ. Anh Sênh thường bơi qua sông Kinh Thày phục vụ việc đồng áng hằng ngày. Anh Sênh lập gia đình khá sớm, năm 1965, khi nhập ngũ đã có 2 con. Sau 3 tháng, đơn vị dự kiến cho xuất ngũ vì hoàn cảnh gia đình, con nhỏ, mẹ già đau yếu. Anh về, gia đình hẳn đỡ khó khăn, nhưng lại nghĩ, là thanh niên, trong thời chiến, mới đi được 3 tháng đã xuất ngũ, dân làng sẽ nghĩ gì về mình. Sau vài ngày đắn đo, anh xin ở lại, biên chế trong đơn vị công binh. Năm 1968, đơn vị thấy anh là người có đủ sức khỏe, cao tới 1,72m, lại quen sông nước từ nhỏ, liền cho sang binh chủng Đặc công nước, theo yêu cầu của thủy quân. Sau 4 tháng tập luyện, anh đủ điều kiện đi B để đánh tàu chiến của địch. Vào đến chiến trường Quảng Trị đã là tháng 2 năm 1969. Trong đặc công, riêng đặc công nước phải có tố chất đặc biệt về bơi lội và lặn sâu, kể cả kỹ thuật của người nhái. Đặc công nước thông thường phải bơi được trên 10 km, lặn vo 6-7m, nếu có khí tài hỗ trợ phải lặn sâu vài chục mét. Khi chiến đấu phải thực địa nhiều lần để thuộc luồng lạch. Nếu không hiểu địa hình thực tế rất dễ đặt thủy lôi một đằng tàu giặc đi một nẻo, công cốc đã đành mà quan trọng hơn là không diệt được khí tài và sinh lực địch, khi bơi không tìm đúng luồng đễ bị nước sông đẩy ra biển, không dễ tìm đường về. Chiến sĩ đặc công nước, ngoài những yêu cầu căn bản như ý chí, dũng cảm, mưu trí, sức khỏe còn cần có năng khiếu đặc thù, ở đây là bơi lội, không những phải chống chọi để chiến thắng kẻ thù hình người mà còn biết cách tránh các loại thủy quái. Đơn vị anh từng có một đồng đội, khi đi làm nhiệm vụ bị một con cá lớn đập đuôi vào chân, không thể chiến đấu được, đồng đội phải đặt vào một bụi cây ven sông, chờ khi hoàn thành nhiệm vụ mới về đón. Đặc công nước của ta đã có Thủy tổ là Yết Kiêu Phạm Hữu Thế, người Gia Lộc, thời Trần, là tấm gương cho nhiều thế hệ. Chiến công do chủ quan của người lính, tuy nhiên cũng cần có sự may mắn. Cuối năm 1969, anh được biên chế về Phân đội 3, thuộc Đội 2, Đoàn 12, Bộ tư lệnh Hải quân, làm nhiệm vụ đánh tàu địch, chủ yếu là tàu của quân đội Mỹ ở cảng Cửa Việt, thuộc tỉnh Quảng Trị. Đây là một cảng lớn hạ lưu sông Thạch Hãn về đường thủy, nhưng lại là nơi bắt đầu của đường 9, đi qua nhiều huyện của Quảng Trị, cắt ngang đất nước, rồi qua Lao Bảo, sang Nam Lào, là con đường chiến lược trong chiến tranh chống Mỹ ngụy. Từ cảng Cửa Việt, vật tư, vũ khí, sinh lực của địch theo đường9 đến Nam Lào, chúng tạo nên một phòng tuyến vững chắc, chống lại miền Bắc, cách giới tuyến tạm chỗ gần nhất chỉ 20 cây số, ngăn chặn các đoàn quân ta tiến vào Nam trong một dải đất hẹp, trên dưới 50km. Tiêu diệt tàu giặc ở Cửa Việt là đánh tận gốc khí tài và sinh lực địch ngay tuyến đầu chống Mỹ ngụy, có ý nghĩa rất to lớn cho toàn cục của chiến tranh giải phóng miền Nam. Gọi là đánh tàu ở Cửa Việt nhưng không phải đánh tàu ở bến sông mà phải đánh ngoài khơi xa hàng chục cây số. Còn đánh thủy lôi phải đúng luồng lạch của sông, để khi tàu chạy qua thì cảm ứng mà nổ, không phải đặt đâu cũng được. Theo tiểu sử Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, từ năm 1969, đến năm 1972, đồng chí Lê Xuân Sênh làm nhiệm vụ đánh tàu địch tại Cửa Việt (Quảng Trị). Do bị ta đánh nhiều lần, nên địch canh phòng rất nghiêm ngặt, có hệ thống chiếu sáng cực mạnh và cho tàu tuần tiễu suốt đêm, thỉnh thoảng chúng lại cho ném lựu đạn xuống nước, đề phòng ta đột nhập. Không sợ gian khổ, lợi dụng sơ hở của địch, đồng chí Lê Xuân Sênh đã ra vào Cửa Việt 30 lần để trinh sát, nắm chắc tình hình địch, đưa đường cho đơn vị vào cảng, đánh chìm 13 tàu địch, riêng đồng chí đánh chìm 3 chiếc. Đêm ngày03 tháng 9 năm 1969, khi đồng chí cùng đồng đội tiếp cận mục tiêu, bị địch ném lựu đạn, đồng chí bị choáng nhưng vẫn cố gắng bơi vào gần tàu địch, đặt khối thuốc nổ 7kg nhưng sức công phá rất lớn, đánh chìm một tàu trọng tải 5000 tấn. Bọn địch ở khu vực cảng bắn ra dữ dội, đồng chí vẫn bình tĩnh và dìu một đồng chí bị thương ra khỏi vùng nguy hiểm. Trận đánh đêm vào ngày 5 tháng 9 năm 1970, khi tổ đồng chí đang bơi để tiếp cận mục tiêu, thì sóng to, gió lớn, gây khó khăn cho ta, nhưng lại rất bất ngờ cho địch, đồng chí vận động anh em thấy rõ lợi hại trong tình huống đó, quyết tâm tiếp cận mục tiêu, dùng bộc phá, phá huỷ 2 tàu địch, trở về căn cứ an toàn. Trong trận đánh Cồn Tòng, đêm 21 tháng 3 năm 1971, đồng chí chỉ huy đơn vị luồn lách qua các ổ phục kích của địch, chúng phát hiện, gọi pháo bắn cấp tập, đồng chí bình tĩnh cùng tổ chiến đấu, nhanh chóng đuổi đánh bọn thám báo, tiếp cận mục tiêu, đánh chìm một tàu LCM của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tạo nên “Sấm rền Cửa Việt”. Đồng chí được thưởng Huân chương chiến công giải phóng hạng II, 3 huân chương chiến công giải phóng hạng III, một lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ quyết thắng. Ngày 19 tháng 5 năm 1972, đồng chí được Chỉnh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Khi tuyên dương Anh hùng, đồng chí Lê Xuân Sênh là Phân đội trưởng, phân đội 3, thuộc đội 2, đặc công nước, Đoàn 12, Bộ Tư lệnh Hải quân. Năm 1989, ở tuổi 49, nếu ở lại đi học lớp sĩ quan cao cấp hẳn còn thêm nhiều sao gạch, nhưng anh xin nghỉ hưu với quân hàm Trung tá, về với ruộng vườn như trước khi nhập ngũ, tiếp tục công tác ở làng quê, thanh thản như vừa cày xong một thửa ruộng. Mải mê việc nhà, việc xã hội thế mà đã 36 năm, kể từ ngày rời quân ngũ. Con trai anh cũng là quân nhân đã hưu trí, các cháu đã trưởng thành có công ăn việc làm, các chắt đã đi học, nhưng hai cụ vẫn song toàn, khỏe mạnh, thỉnh thoảng lại được mời đi hội nghị mừng công, gặp mặt thân nhân, đồng đội. Có một gia đình hạnh phúc như anh không nhiều. Mong rằng, vợ chồng anh Lê Xuân Sênh trường thọ, sống vui, sống khỏe, sống có ích trong những năm tháng đất nước vươn mình.