Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hải Dương
Chùa Đồng Neo, danh lam cổ tích của Thành phố Hải Dương
Thứ sáu - 27/12/2024 15:33250
Từ khi thành phố Hải Dương mở rộng, nhiều di tích lịch sử của các huyện kế cận đã hội nhập vào thành phố, không những làm cho thành phố rộng lớn, cảnh quan đa dạng, giàu di sản văn hóa, mà còn là cơ hội để thành phố phát triển đa diện, nhất là văn hóa và du lịch.
Trong đó phải kể đến di tích chùa Đồng Neo, còn có tên là chùa Linh Ứng, thuộc xã Tiền Tiến, thành phố Hải Dương. Chùa đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 31 tháng 12 năm 1997.
Đường vào chùa Đồng Neo. Ảnh: Lê Hiền
Chùa Đồng Neo là tên gọi mang nhiều yếu tố dân gian, người xưa cho rằng chùa rất linh thiêng, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân nên được gọi là chùa Linh Ứng nôm gọi là Đông Neo.Đó là một danh lam cổ tích từ triều Hậu Lê, tọa lạc phía nam xã Tiền Tiến, phía đông thành phố Hải Dương. Nằm trong đồng bằng châu thổ, nhưng do đất đai trù phú, giàu nguồn thủy sản, thuận tiện về giao thông, cách cái nôi của người tiền sử Kinh Môn không xa, nên nơi đây được con người khai phá và cư trú muộn nhất cũng từ thời Hùng Vương dựng nước. Tại địa phận của xã đã tìm được trống đồng lại I thuộc văn hóa Đông Sơn. Con người nơi đây thông minh và năng động, cần cù và sáng tạo, đoàn kết và dũng cảm trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trải qua hàng nghìn năm lao động cần mẫn, cư dân đã tạo nên một làng quê cổ kính, giàu có với những công trình văn hóa huy hoàng, nay trở thành những bảo vật của quốc gia. Đặc biệt là chùa Linh Ứng có đủ sự tích về cổ, cận, hiện đại. Những công trình đó gắn liền với sự kiện lịch sử, với danh nhân qua từng thời đại mà bia ký, sử sách đã ghi. Đặc biệt là ngôi chùa cổ Linh Ứng hay Động Liêu tự, cùng với di tích lịch sử chùa Động Ngọ góp phần làm nên “Hải Dương- thành phố tôi yêu” với những cảnh quan, công trình kiến trúc, cơ sở cách mạng thật đáng tự hào. Ngôi chùa cổ kính với đủ các hạng mục kiến trúc và bài trí của triều Lê trên một khu đất rộng 4.342 m2, giữa xóm thôn đầm ấm, phong cảnh hữu tình, nhìn ra cánh đồng bát ngát lúa màu xanh non, thẳng cánh cò bay với dòng sông quê thơ mộng. Theo như văn bản đã được nghiên cứu, chùa được xây dựng vào thời Lê Sơ (1527) căn được ghi văn bia và di vật cùng thời hiện còn ở di tích. Nhân dân xây dựng ngôi chùa này với mục đích phát huy giáo lý đạo Phật: Khuyên răn con người hướng thiện, cần cù, chịu khó lao động, trút bỏ những muộn phiền, tham, sân, si xây dựng cuộc sống hướng tới những điều tốt đẹp trong cộng đồng. Chùa ẩn mình dưới những tán cổ thụ xanh mướt, cây ăn quả trĩu cành phổ biến ở nơi đây tạo nên sự thanh bình, cổ kính, giản dị, khiêm nhường và thanh tịnh mang tính khu biệt của một vùng quê. Bên trong sự giản dị đó là một kho tàng cổ vật có giá trị được bao thế hệ nơi đây gìn giữ như một phần cuộc sống tinh thần của họ. Cổ vật ở đây phần lớn được khởi tạo đời vua Lê Hy Tông. Cây hương đài bằng đá tạo năm Chính Hòa thứ 20 (1699). Chuông đồng đúc năm Chính Hòa thứ 21 (1700). Thống đá niên hiệu Chính Hòa thứ 23 (1702). Nhiều bia ký khắc vào triều Hậu Lê và Nguyễn, trong đó có văn bia khắc dựng năm (1679). Ngoài hệ thống tượng Phật có từ triều Lê-Nguyễn, chùa còn 9 tháp sư thời Nguyễn. Tháp có niên đại cổ nhất được xây dựng năm 1827, gần đây nhất năm 1921. Tháp ghi rõ tiểu sử của các vị sư đã tu hành và viên tịch nơi này.
Tháp chuông trong chùa. Nguồn: Lê Hiền
Tại di tích đã tìm được bát hương gốm thời Mạc (TK XVI). Đặc biết là, tại chùa còn lưu trữ vài trăm mộc bản, tức bản in từ triều Nguyễn. Đây là di sản được các học giả trong và ngoài nước quan tâm. Xuất phát từ tấm lòng từ thiện, nơi đây không chỉ là nơi giáo huấn đạo pháp, hướng tâm thanh tịnh cho cư dân mà còn là cơ sở cách mạng tin cậy từ thời tiền khởi nghĩa (1942-1945). Trong thời kỳ đó, chùa là cơ sở diễn ra những cuộc họp bí mật, quan trọng. Là nơi chuyển tiếp báo chí cách mạng, truyền đơn và tài liệu mật về chiến khu Đông Triều, nơi ăn nghỉ thường xuyên của cán bộ cách mạng các cấp. Chùa là cơ sở đóng quân của đại đội Bắc Hà trong cuộc kháng chiến chống Pháp của tỉnh đội Hải Dương. Các đồng chí cán bộ lãnh đạo địa phương và các cấp thường xuyên qua lại bám đất bám làng giữ dân, lãnh đạo, huấn luyện quân đội để tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp đến ngày giải phóng. Cũng từ mái chùa thâm nghiêm cổ kính này, sư cụ Nguyễn Thanh Trúc đã tham gia chiến dịch quyên tiền ủng hộ kháng chiến một vạn đồng Đông Dương để mua vũ khí và nuôi quân. Nhà chùa còn dùng 5 gian nhà gỗ làm cơ sở cho lực lượng vũ trang địa phương. Không những ủng hộ tiền bạc, cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc mà sư cụ Nguyễn Thanh Trúc còn giác ngộ cách mạng cho các tăng ni, Phật tử, động viên họ lên đường bảo vệ đất nước. Tấm gương điển hình là nhà sư Nguyễn Văn Bể đã nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc lên đường nhập ngũ vào đại đội Bắc Hà, chiến đấu kiên cường và dũng cảm hy sinh vì dân tộc, được cấp bằng tổ quốc ghi công. Ghi nhớ công ơn của nhà sư nhân dân đã xây tháp tưởng niệm tại chùa. Di tích đã mang trong mình giá trị lịch sử quý báu, đáng khâm phục, tự hào của xã Tiền Tiến nói riêng và của tỉnh nhà nói chung. Những dấu ấn lịch sử ấy luôn khơi dậy trong lòng những người dân nơi đây qua các thế hệ về lòng yêu nước, yêu quê hương, kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của cha ông trong công cuộc giữ nước và xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp hơn. Phát huy truyền thống đó nhân dân xã nhà luôn từng ngày từng giờ phấn đấu, nỗ lực hết mình làm đẹp thêm những trang sử hào hùng trên chính mảnh đất quê mình. Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, dân làng nơi đây tổ chức lễ hội vào ngày 7 tháng giêng, ngày 15 tháng 2, mồng 1 tháng 12 Âm lịch để tưởng nhớ ngày mất của nhà sư Nguyễn Thanh Trúc, hòa thượng Thích Chiếu Khuông Tỉ Khiêu và Thích Tự Nguyện. Lễ hội không những thể hiện văn hóa truyền thống của Phật giáo, tưởng nhớ người có công xây dựng, tu tạo chùa mà nhân dân còn tổ chức vui chơi văn nghệ, đánh cờ…để duy trì bản sắc văn hóa của quê hương. Ngôi chùa Đồng Neo cổ kính, ngoài vẻ đẹp thâm nghiêm, mang giá trị lịch sử của cách mạng thì ngôi chùa này còn có giá trị lớn về mặt kiến trúc và văn hóa. Đặc biệt dấu ấn văn hóa Nho giáo được thể hiện khá rõ nét. Nhiều câu đối, đại tự, văn bia chữ Hán làm nên một nền văn hóa Việt của thời phong kiến thu nhỏ tại nơi đây. Chùa tọa lạc hướng về phía Bắc, hướng ra phía con đường bê tông rộng, trục chính của thôn, nhìn ra cánh đồng và hướng ra phía đò Neo qua con sông Thái Bình là sang đất Tứ Kỳ. Ngay cổng vào chúng ta đã bắt gặp tường bao khắc hình rồng chầu mặt nguyệt và đôi câu đối hữu tình: Ngoài cánh đồng xanh bao la hữu ý bầu trời đó, Trong chùa hương đỏ linh ứng vô lượng đất Phật đây. Cổng phía tây đề: Phương Tây Phật sử không không lượng Linh ứng Đồng Neo sắc sắc thanh (Lịch sử Phật giáo phương Tây không giới hạn Phong cảnh Linh Ứng-Đồng Neo bát ngát xanh) Trên gác chuông treo quả chuông có niên đại Chính Hòa năm thứ 21 (1700). Tam quan có bia hậu phật ghi niên đại Chính Hòa thứ 13 (1693). Tất cả các câu đối, đại tự, văn bia nơi đây đều mang vẻ đẹp trang nhã, thanh tịnh của đạo Phật, bảo vệ che chở cho muôn dân, hướng con người tới những điều tốt lành, cởi bỏ ưu phiền, tìm thấy ý nghĩa trong sáng của cuộc sống nơi trần thế. Nhân dân địa phương và khách thập phương lui tới nơi đây, nơi cửa Phật sẽ thấy tâm an, hạnh phúc, cuộc sống tươi vui, muôn điều tốt đẹp. Và không thể không kể đến câu đối đặt ở tòa tam bảo: Cảnh thắng trang thành thiên tải kim dĩ yến thủy, Dân kì mỹ tục ức niên phúc quả tăng long. (Phong cảnh này đẹp ngàn năm sáng như vàng bạc Phong tục ấy thờ cúng muôn năm thịnh vượng, phúc ngày càng lớn). Tại nhà tăng, nơi các tín đồ sinh hoạt trong những ngày tế lễ, hội hè còn lưu giữ 4 đại tự ở 4 gian trung tâm hướng những điều tốt lành tới mọi người: Vô ác bất phạt. (Không làm điều ác không bị trừng phạt) Lợi lộc đồng nhân. (Mọi người đều được hưởng quyền lợi). Như bị thiên trạch. (Hưởng đủ lộc trời). Quang thiên trùng. (Ánh sáng nhà Phật như mặt trời). Tại đây còn có đôi câu đối: Xử thế như trung chân điều dụng Vi nhân năng nhẫn thị lương phương. (Ở đời lấy chữ trung thành làm việc đối nhân xử thế Làm người lấy nhẫn nại làm phương pháp hay nhất). Tư đan phả tế thiên Nam Bắc Huệ vũ trùy phù địa hải hà. (Thuyền nhà Phật đi cứu vớt ở mọi phương Nam Bắc Ơn của nhà Phật như mưa rải khắp đất liền và sông biển). Công trình kiến trúc của ngôi chùa được còn khá đồng bộ từ Tiền đường, Tam bảo, Nhà tổ, nhà tạo soạn, tam quan, gác chuông, phần lớn còn kiến trúc trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Với ý nghĩa về nhiều mặt của ngôi chùa cổ, có thể giúp các thế hệ học sinh học tập, tìm hiểu về chương trình địa phương. Nếu một lần du khách ghé thăm thành phố Hải Dương với những di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc, Chu Văn An… mời du khách hãy dừng chân thăm ngôi chùa Đồng Neo của xã nhà Tiền Tiến hẳn du khách sẽ thấy thời gian dừng chân của mình có ý nghĩa đến nhường nào: Cảnh quan, kiến trúc, tâm linh, cách mạng và con người nơi đây sẽ làm hài lòng du khách.