Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hải Dương

http://lienhiephoihaiduong.vn


Một số điều cần biết về bệnh Bạch hầu

Theo Bộ Y tế, tính đến 8/7/2020 đã ghi nhận 63 bệnh nhân bạch hầu tại toàn bộ 4 tỉnh Tây Nguyên gồm Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum,Đắk Lắk và TP Hồ Chí Minh. Đã có 3 ca tử vong.
Cổ họng của người bị bạch hầu.
Tác nhân gây bệnh
Bệnh gây ra bởi vi khuẩn Corynebacterium diphtheria. Đây là vi khuẩn gram dương, hình que, hiếu khí. Vị trí tấn công phổ biến nhất của vi khuẩn này là vùng hầu họng và hình thành màng giả (pseudomembrane) màu trắng nên bệnh có tên gọi là Bạch Hầu. Ngoài ra, vi khuẩn còn có thể nhiễm ở vùng da hoặc bộ phân sinh dục (hiếm xảy ra).
Giống như bệnh COVID-19 vi trí gây bệnh chủ yếu ở đường hô hấp nên việc lây nhiễm vi khuẩn Bạch Hầu cũng xảy ra dễ dàng qua đường các hạt dịch hô hấp bắn ra từ người bệnh.
Bạch hầu do là vi khuẩn (bacteria) gây ra chứ không phải do virus như nCoV nên nguy cơ nhiễm từ người sang người cao hơn nếu vùng có người nhiễm bệnh không được tiệt trùng kỹ, do vi khuẩn có khả năng tự sống sót độc lập trong môi trường ngoài cơ thể vật chủ tốt hơn (từ 7 ngày cho đến 6 tháng).
Triệu chứng và cơ chế gây bệnh
Các triệu chứng ban đầu bao gồm khó chịu, đau họng, chán ăn và sốt nhẹ (khoảng 38°C). Trong vòng 2-3 ngày, một màng màu trắng hơi xanh hình thành và mở rộng, từ việc che một mảng nhỏ trên amidan đến bao phủ hầu hết vòm miệng. Thông thường vào thời điểm đi khám bác sĩ thì màng đã có màu xanh xám hoặc đen nếu đã bị chảy máu. Màng này bám chắc vào mô và nếu cố gắng loại bỏ nó sẽ gây chảy máu, khi nó mở rộng do sự sinh sản của vi khuẩn có thể dẫn đến tắc nghẽn đường hô hấp. Trong khi một số bệnh nhân có thể phục hồi vào thời điểm này mà không cần điều trị, những người khác có thể bị bệnh nặng hơn và thậm chí bị chết.
Tính độc gây chết người của vi khuẩn Bạch Hầu thường bắt nguồn từ chất độc được tiết ra bởi vi khuẩn này có tên là Diptheria Toxin hay gọi tắt là DT. Nếu hấp thụ đủ độc tố, bệnh nhân có thể bị xanh xao, mạch đập nhanh, choáng váng, hôn mê và thậm chí có thể tử vong trong vòng 6 đến 10 ngày. Gene mã hóa cho chất độc này thực ra không phải của vi khuẩn mà nó có nguồn gốc từ một loại virus của vi khuẩn (trong chuyên môn gọi virus này là bacteriophage hay ngắn gọn là phage). Độc tính của vi khuẩn có thể mạnh hơn khi số lượng gene độc tố này được gắn vào trong bộ gene của vi khuẩn nhiều hơn (những chủng có khoảng 2-3 bản sao chép của gene độc tố này có thể được xem là nguy hiểm). Diptheria Toxin (DT) là một loại “độc tố ngoại bào” (exotoxin), tức là chúng có thể tiết ra ngoài trong quá trình sống của vi khuẩn. Từ đó độc tố DT có thể di chuyển khắp cơ thể vào bám dính vào các tế bào có thụ thể phù hợp (như thụ thể HB-EGF) để bắt đầu quá trình xâm nhập vào trong tế bào. Khi vào được bên trong thì độc tố này sẽ ngăn cản quá trình tạo protein của tế bào, một quá trình quan trọng của một tế bào sống. Hậu quả của việc không tạo được protein là tế bào sẽ chết. Người ta xác định lượng độc chất DT có thể gây chết ở người là khoảng cỡ hoặc dưới 100 ng/kg (một người 50 kg có thể chết khi trong người có khoảng 5 microgram độc tố). Cơ tim và dây thần kinh ngoại biên là nơi bị ảnh hưởng nhiều nhất và dễ dẫn đến biến chứng chết người. Ngoài ra các biến chứng khác bao gồm viêm tai giữa và suy hô hấp do tắc nghẽn đường thở, đặc biệt là ở trẻ sơ sinh.
Điều trị và phòng bệnh
Bạch Hầu được điều trị bằng cách kết hợp sử dụng kháng sinh (penicillins, cephalosporins, erythromycin, and tetracycline) để tiêu diệt vi khuẩn Bạch Hầu với chất kháng độc tố (antitoxin) để trung hòa các độc tố do vi khuẩn tiết ra. Bệnh nhân Bạch Hầu thường được cách ly cho đến khi họ không còn khả năng lây nhiễm cho người khác.
Tỷ lệ tử vong chung của trường hợp mắc bệnh Bạch Hầu là 5%-10%, với tỷ lệ tử vong cao hơn (lên tới 20%) ở trẻ em dưới 5 tuổi và người trên 40 tuổi.
Cách phòng bệnh tốt nhất là tiêm phòng đầy đủ, đúng lịch và thực hiện lối sống lành mạnh, nâng cao hệ miễn dịch cơ thể.
Nguyễn Hồng Vũ
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây