Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hải Dương
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ
Thứ hai - 18/05/2020 14:356090
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự phát triển của khoa học công nghệ (KH&CN). Hồ Chí Minh cho rằng KH&CN có ảnh hưởng rất lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của KH&CN với phát triển kinh tế
Thứ nhất, KH&CN là nhân tố quyết định phát triển kinh tế. Trong bài viết “Vấn đề dân bản xứ” đăng trên Báo L'Humanité, ngày 02/8/1919, Hồ Chí Minh nêu ra “Là phi lý nếu nghĩ rằng hai dân tộc láng giềng như dân tộc An Nam và dân tộc Nhật Bản lại có thể cứ tồn tại biệt lập đối với nhau. Nhưng người Nhật, nhờ ở chính phủ khôn khéo của họ, có các phương tiện rất đầy đủ, được trang bị tốt để tiến hành đấu tranh kinh tế; trong khi đó thì người An Nam - chúng tôi đã nói vì sao - lại hoàn toàn là con số không, xét về mặt tiến bộ hiện đại”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn cho người đọc thấy rằng, sự khác biệt về kinh tế giữa dân tộc Nhật Bản với dân tộc An Nam là ở chỗ người Nhật đã thực hiện công nghiệp hóa; du nhập và học hỏi từ phương Tây về khoa học - kỹ thuật hiện đại để tăng khả năng cạnh tranh về kinh tế, chiếm lợi thế tuyệt đối trong so sánh kinh tế.
Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ tính quyết định của KH&CN đối với phát triển kinh tế nói riêng và thực hiện chủ nghĩa cộng sản nói chung. Trả lời câu hỏi trong cuộc họp báo ngày 12/7/1946: “Có phải Chủ tịch cho rằng nước Việt Nam chưa có thể cộng sản hóa được trước một thời hạn là 50 năm không?”. Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời: “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. Ở nước chúng tôi, những điều kiện ấy chưa có đủ”(2). Trong bài “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu” tại buổi nói chuyện vào năm 1952 nhân dịp có phong trào sản xuất và tiết kiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn một số ý kiến của Lênin và Stalin, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của công nghệ đối với phát triển kinh tế để nhắc nhở các ngành, các cấp thực hiện. Người khẳng định: “Chỉ có liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp, không rời xa sức tiết kiệm và ăn khớp với vốn liếng và sức hậu bị của ta - thì công nghệ mới làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của nó, là lãnh đạo và cải tạo kinh tế quốc dân”(3). Thứ hai, KH&CN phải gắn kết chặt chẽ với sản xuất. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, KH&CN phải gắn kết chặt chẽ với sản xuất, là một yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất và hướng vào giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế của đất nước. Người cho rằng, khoa học phải từ sản xuất mà ra và trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Phát biểu tại Hội nghị cán bộ phát động cuộc vận động “Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc” (ngày 07/3/1963), Người nói: “Chúng ta cần phải tập trung lực lượng làm cho nước ta sản xuất ngày càng nhiều lương thực; trồng càng nhiều cây công nghiệp; chăn nuôi càng nhiều trâu, bò, lợn, gà,… Muốn có kết quả đó thì nhất định phải cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật”(4). Trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội Phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam (ngày 18/5/1963), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích: “Chúng ta đều biết rằng trình độ khoa học, kỹ thuật của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp kém. Phong tục tập quán lạc hậu còn nhiều. Nhiệm vụ của khoa học là ra sức cải tiến những cái đó” (5). Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, KH&CN gắn kết chặt chẽ với sản xuất nghĩa là KH&CN phải góp phần thực hiện khẩu hiệu “Sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ”. Trong bài viết “Học tập không mỏi, cải tiến không ngừng” đăng trên Báo Nhân dân số 2187 ra ngày 14/3/1960, Người chỉ rõ: “Có cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức lao động, mới có thể sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Nếu chỉ dựa vào sự quen tay hoặc nếu chỉ dồn thêm sức ra, kết quả thường là được mặt này mất mặt khác, được nhanh lại không tốt, được tốt lại không nhanh, không rẻ… mà mặt nào cũng bị hạn chế”(6). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia công tác KH&CN không phải là việc của riêng ai mà của tất cả mọi người, mọi ngành nhằm nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra nhiều của cải vật chất, xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi. KH&CN cần phải gắn kết chặt chẽ với sản xuất, nhất là ở những nước nghèo, để phục vụ sản xuất phát triển; đồng thời sản xuất cũng là động lực thúc đẩy KH&CN phát triển. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta, việc xây dựng tiềm lực KH&CN hướng tới hiện đại, làm cho sản xuất phát triển nhanh, tạo điều kiện nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là bảo đảm các yêu cầu cơ bản, xóa đói giảm nghèo. Thứ ba, tích cực tiếp thu các thành tựu mới nhất về KH&CN của thế giới để thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm coi KH&CN là tài sản chung của nhân loại. Tại buổi nói chuyện với sinh viên đại học chào mừng Tổng thống Indonesia Sukarno (ngày 26/6/1959), Người cho rằng mỗi người, mỗi dân tộc đều có thể “hưởng thụ tất cả những khoa học, những hiểu biết của thời đại”(7). Là tài sản chung, KH&CN mở ra cơ hội để mọi người, mọi dân tộc xích lại gần nhau, thi đua phát triển kinh tế với nhau. Trong bức thư gửi Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Giêm Biếcnơ, đề ngày 01/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ nguyện vọng được gửi một phái đoàn khoảng 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ để thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ, nhưng chủ yếu là để “xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác”(8). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc tiếp thu các thành tựu mới nhất về KH&CN trên thế giới nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế không chỉ giới hạn trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa mà còn ở tất cả các nước dân chủ khác trên thế giới, điều này đã từng được Người khẳng định trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc” vào tháng 12/1946. Tư tưởng của Hồ Chí Minh với trí thức khoa học công nghệ Muốn phát triển khoa học công nghệ thì cần phải có nhân tài. Chỉ sau ngày công bố tuyên ngôn độc lập 2 tháng, với cương vị chủ tịch nước, thông qua báo cứu quốc, Người đã kêu gọi hiến tài. Lúc bấy giờ, đất nước ta đang rất cần những người có tài trên các lĩnh vực ngoại giao, quân sự, kinh tế, giáo dục, khoa học.“ Kiến thiết phải có nhân tài.... Ai có tài năng và sáng kiến về những công việc đó, lại sẵn lòng giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chính phủ sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng, có thể thi hành được thì thực hành ngay”9 . Tại phiên họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc năm 1946, Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc thực thi chính sách cầu tài, động viên: “ Ai có sức giúp sức, ai có tài giúp tài”(10) . Ngay từ năm 1948, chỉ sau hơn 2 năm độc lập, trong hoàn cảnh kháng chiến chống thực dân Pháp, trong lời kêu gọi thi đua ái quốc, Bác đã động viên trí thức thi đua sáng tác và nghiên cứu phát minh(11). Ngay từ những năm đầu giành chính quyền, Bác quan tâm ngay đến đến việc đoàn kết, tập hợp đội ngũ trí thức trong nước và thu hút trí thức Việt kiều ở nước ngoài, trọng dụng, tạo điều kiện tối đa cho trí thức phát huy tài năng, hiểu biết của mình phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Biết bao nhân sĩ, trí thức đã vượt qua gian khổ, hy sinh, lập nên những kỳ tích KH&CN trong kháng chiến chống thực dân Pháp và được lưu danh như: Hồ Đắc Di, Nguyễn Văn Tố, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ… Sự cống hiến xuất của họ xuất phát từ lòng yêu nước, từ sự trọng dụng nhân tài của Đảng, Nhà nước ta, từ sự chinh phục bằng tầm cao trí tuệ và nhân cách vĩ nhân của Bác. Có thể nói rằng, thời gian đầu, các nhà khoa học Việt kiều chưa hiểu nhiều về đảng, về cách mạng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, họ theo Bác về nước chủ yếu là do Bác chinh phục bằng tầm cao trí tuệ và nhân cách vĩ nhân của Bác. Còn chính sách đãi ngộ của nhà nước lúc bấy giờ đã có gì mấy. Ngay sau khi hoà bình vào năm 1954, tiếp đến là cả trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cùng với phát triển giáo dục đào tạo trong nước, hàng vạn cán bộ, sinh viên tiếp tục được Đảng, nhà nước và Bác cử ra nước ngoài ( Liên xô và các nước XHCN) học tập, nghiên cứu. Ngày nay, họ đã trở thành những nhà khoa học đầu đàn và đội ngũ trí thức nòng cốt của đất nước, đạt được nhiều thành tựu to lớn trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, được tôn vinh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ngay từ những năm năm mươi, Bác đã có bài viết bình luận với tiêu đề “ Anh hùng và chiến sỹ trí thức” (12) . Đến năm 1958, Bác đã ký sắc lệnh phong tặng danh hiệu anh hùng cho các trí thức tiêu biểu. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quý trọng trí thức. Nhưng Bác cũng cũng đã sớm lưu ý, cảnh báo và nhắc nhở, đại ý: Trí thức mà chỉ có sự hiểu biết, không đem vào áp dụng trong hoạt động thực tiễn thì mới trí thức một nửa,chưa phải trí thức hoàn toàn. Theo tư tưởng của Bác, chúng ta có thể suy rộng ra: Khoa học công nghệ phải được áp dụng và kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nếu nghiên cứu xong mà không đem áp dụng được trong sản xuất thì chỉ mới là khoa học một nửa. Nhận thức được vai trò, vị trí hết sức quan trọng của KH&CN, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, Đảng ta đã sớm có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn về phát triển KH&CN. Quan điểm coi KH&CN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa được khẳng định và quán triệt trong nhiều văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới. Cụ thể: Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng coi KH&CN cùng với giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực công nghiệp hoá, hiện đại hoá; Nghị quyết Đại hội lần thứ IX tiếp tục khẳng định vai trò của KH&CN trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; Đại hội X nhấn mạnh vai trò động lực của KH&CN trong phát triển kinh tế tri thức và Đại hội XI đề ra đường lối đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, KH&CN giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Trên con đường hội nhập và phát triển những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khoa học, công nghệ vẫn mãi là kim chỉ nam, là động lực để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực, tạo nên ngày càng nhiều thành tích về khoa học, công nghệ, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp, văn minh.
Giang Thanh
Chú thích:
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.2000, tr.10.(2),(8) Sđd, tập 4, Nxb CTQG, H.2000, tr.600, tr.88. (3) Sđd, tập 6, Nxb CTQG, H.2000, tr.499. (4),(5) Sđd, tập 11, Nxb CTQG, H.2000, tr.32, tr.77. (6) Sđd, tập 10, Nxb CTQG, H.2000, tr.315, tr.103. (7) Sđd, tập 9, Nxb CTQG, H.2000, tr.480. (9),(10), (11),(12) Sửa đổi lối làm việc. Một số bài nói và viết của chủ tịch Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí quan liêu. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội, năm 2008, tr.89, 76, 88